Sử dụng Uranyl(VI) nitrat

Trong nửa đầu thế kỷ 19, nhiều muối kim loại cảm quang đã được xác định là các chất dùng cho quá trình chụp ảnh, trong số đó có uranyl(VI) nitrat. Các bản in do đó được tạo ra được gọi là bản in urani hoặc kiểu in urani. Quy trình in urani đầu tiên được phát minh bởi Scotsman J. Charles Burnett vào năm 1855–1857, sử dụng hợp chất này làm muối nhạy cảm. Burnett là tác giả của một bài báo năm 1858 với tên gốc “Printing by the Salts of the Uranic and Ferric Oxides”. Quá trình in bằng urani sử dụng khả năng nhận hai điện tử của ion uranyl và giảm xuống trạng thái oxy hóa thấp hơn là urani(IV) dưới tia cực tím. Màu chữ uranotype có thể thay đổi từ bản in này sang bản in khác, từ màu nâu trung tính, màu nâu sang màu đỏ Bartolozzi đậm hơn, với dải tông màu rất rộng. Các bản in còn sót lại có tính phóng xạ nhẹ, một đặc tính đóng vai trò như một phương tiện xác định chúng. Một số quy trình chụp ảnh phức tạp hơn sử dụng hợp chất này đã xuất hiện và biến mất trong nửa sau của thế kỷ 19 với những cái tên như Wothlytype, Mercuro-Uranotype và quy trình Auro-Uranium. Giấy urani được sản xuất thương mại ít nhất cho đến cuối thế kỷ 19, rồi biến mất do độ nhạy vượt trội và những ưu điểm thực tế của bạc halogenua. Từ những năm 1930 đến những năm 1950, Kodak Books đã mô tả một loại mực in urani (Kodak T-9) sử dụng uranyl(VI) nitrat hexahydrat. Một số nhiếp ảnh gia bao gồm Blake Ferris và Robert Schramm vẫn tiếp tục tạo ra các bản in kiểu uranotype cho đến ngày nay.

Cùng với uranyl(VI) acetat, nó được dùng làm chất nhuộm âm tính cho virus trong kính hiển vi điện tử; trong các mẫu mô nó được dùng làm ổn định axit nucleicmàng tế bào.

Uranyl(VI) nitrat được sử dụng để làm nhiên liệu cho các lò phản ứng đồng nhất trong nước vào những năm 1950 như một chất thay thế cho uranyl(VI) sunfat có tính ăn mòn cao hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu tập trung vào các thiết kế lò phản ứng không đồng nhất dẫn đến các thí nghiệm đã không còn được thực hiện.[cần dẫn nguồn]

Uranyl(VI) nitrat rất quan trọng đối với quá trình tái xử lý hạt nhân. Nó là hợp chất của urani – là kết quả của việc hòa tan các nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng hoặc bánh vàng trong axit nitric, sau đó tách tiếp và điều chế urani(VI) florua để tách đồng vị và làm giàu urani.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Uranyl(VI) nitrat http://environmentalchemistry.com/yogi/chemicals/c... http://ibilabs.com/uranium-uranyl-thorium-compound... http://chemapps.stolaf.edu/jmol/jmol.php?model=%5B... http://www.commonchemistry.org/ChemicalDetail.aspx... //dx.doi.org/10.1016%2F0022-1902(65)80119-1 //dx.doi.org/10.1515%2Fract-2014-2337 https://web.archive.org/web/20071223084433/http://... https://books.google.com.vn/books?id=HCbzAAAAMAAJ https://books.google.com.vn/books?id=TnRBjgqJr4gC&...